Học sinh lấy bằng thành chung thời Pháp sau 8-10 năm học


Vượt qua 5-6 năm tiểu học, 3-4 năm trung học (cấp hai), học sinh được cấp bằng thành chung, nói thông thạo tiếng Pháp, am hiểu lịch sử thế giới.

Khám phá hình ảnh xưa nhất về Sài Gòn

Tìm lại ký ức Sài Gòn xưa

Trước năm 1874, trẻ 14-16 tuổi học ở các trường dành cho học sinh lớn tuổi. Năm 1860, nhà chung Công giáo lập trường Adran, tự xây dựng chương trình giáo dục, thêm cả học đạo, mệnh danh là Pháp – Việt. Sau đó các sư huynh thiện giáo được mời đến để điều hành trường và chuyển thành công lập.

Tiếp đó, loạt trường đặc biệt cho thiếu niên được mở tại các thị trấn Cần Lố, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giuộc, đều do người Pháp làm giám đốc. Đến ngày 17/11/1874, nghị định tổ chức ngành học lần đầu quy định cấp trung học (enseignement secondaire) với thời gian học ba năm. Hoàn thành 5-6 năm tiểu học, học sinh sẽ lên bậc trung học.

Một trường trung học tư thục công giáo ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19. Ảnh tư liệu

Một trường trung học tư thục công giáo ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19. Ảnh tư liệu

Trường trung học đầu tiên Chasseloup Laubat

Theo chương trình trung học ban hành năm 1874, học sinh học kỹ tiếng Pháp, sơ yếu văn học Pháp; làm luận văn bằng Pháp ngữ, quốc ngữ và chữ Nho. Môn lịch sử gồm khái niệm sử cổ đại, hiện đại căn cứ chính yếu trên vai trò của nước Pháp. Ngoài ra, học sinh còn học các môn khoa học tự nhiên khác, như: toán, vật lý, vạn vật học và các phép đo đạc, giữ sổ sách kế toán, hội họa…

Cùng năm 1874, trường trung học bản xứ Chasseloup Laubat (nay là THPT Lê Quý Đôn, TP HCM) ra đời, lấy tên của Bộ trưởng Bộ thuộc địa của Pháp. Đây là trường trung học lâu đời nhất ở Sài Gòn và xứ Nam Kỳ. Ban đầu, trường dạy bậc tiểu học và trung học, chỉ nhận con em người Pháp, sau đó nhận thêm học sinh người Việt, ở nội trú một khu riêng.

Năm 1879, Pháp quyết định cải tổ giáo dục, chia thành ba cấp, gồm cấp một, cấp hai và ba. Trường cấp hai (tương đương với trung học) học sinh học ba năm, mỗi tuần sẽ có hai giờ chữ Nho và quốc ngữ (học tứ thư), còn lại dành hết cho lớp tiếng Pháp (với các môn Pháp ngữ, số học, hình học, địa lý, tập vẽ).

Sách dành cho môn chữ Nho và quốc ngữ khi đó rất hiếm, với các cuốn Tứ thư, Việt địa dư ký, truyện ký của Trương Vĩnh Ký và sách Lục Vân Tiên theo bản phiên âm bằng tiếng Pháp. Chương trình trung học này kéo dài ở Nam Kỳ tới năm 1918.

Trong khi đó, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cuối khóa sát hạch trung học, thí sinh có thể dự thi Hương, ai đậu cao gọi là cử nhân, đậu thấp gọi là tú tài.

Một lớp học toán ở trường La San Taberd Sài Gòn. Ảnh tư liệu

Một lớp học toán ở trường La San Taberd Sài Gòn. Ảnh tư liệu

Học lấy bằng thành chung thời Pháp

Khi chương trình học chính Pháp – Việt được áp dụng cho toàn cõi Đông Dương năm 1917, bậc trung học ở miền Nam có ba trường Gia Định, Mỹ Tho, Chasseloup Laubat; ở miền Bắc có trường Bảo hộ (Lycée du Protectorat), ở miền Trung có trường Quốc học Huế với tổng số gần 1.000 học sinh.

Bậc trung học lúc này có bốn lớp gồm đệ nhất niên (tương đương lớp 6 ngày nay), đệ nhị niên (lớp 7), đệ tam niên (lớp 8) và đệ tứ niên (lớp 9). Tốt nghiệp bậc học này, học sinh được cấp bằng thành chung.

Mỗi tuần học sinh có hơn 27 giờ lên lớp, hầu hết học bằng tiếng Pháp; tiếng Việt và Hán không quá ba giờ. Học sinh phải học lịch sử và địa lý Pháp rất kỹ, học một số nước khác sơ lược, học về các công trình của Pháp ở Đông Dương.

Chương trình thành chung Pháp – Việt khó và nặng, học sinh phải theo đủ 11 môn như Pháp văn, luận lý, lịch sử, Việt văn – Hán văn, địa lý, toán học, vật lý, hóa học, tập viết chữ đẹp, vẽ theo hình mẫu và tìm hiểu công nghiệp.

Đơn cử, môn lịch sử năm thứ nhất ôn nhanh lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy tới triều Nguyễn và lịch sử các địa phương khác. Lịch sử Pháp, học sinh phải nắm được thời tiểu quốc Gaule và thời trung cổ.

Năm thứ hai, chương trình gồm lịch sử Việt Nam thế kỷ 19, cuộc bảo hộ của Pháp, luận đàm về sử Pháp và thế giới, các phát minh lớn, thời Phục hưng, các cuộc chiến tranh về tôn giáo…

Đến năm thứ tư, môn lịch sử bao quát khắp thế giới, trải từ Âu sang Á với đủ mọi ngóc ngách đời sống, văn hóa, khoa học. Khó như vậy nên thời đó, bằng tốt nghiệp thành chung được coi ngang hàng với bằng tú tài khi xin việc vào các vị trí trung cấp hoặc có thể học tiếp cao đẳng, đại học.

Năm 1925, Pháp ban hành nghị định mới, bằng thành chung không còn giá trị tương đương với tú tài. Học sinh muốn đạt bằng tú tài phải học thêm ba năm.

Học sinh trường trung học Pétrus Ký năm 1929. Ảnh tư liệu

Học sinh trường trung học Pétrus Ký năm 1929. Ảnh tư liệu

Theo quy định của chính quyền, muốn mở trường dạy trung học phải do thống đốc, thống sứ hay khâm sứ đề nghị lên toàn quyền Đông Dương. Do có sự hạn chế này miền Nam chỉ có năm trường dạy bậc trung học gồm Chasseloup Laubat, Pétrus Trương Vĩnh Ký, trường nữ trung học Áo Tím, Mỹ Tho, Cần Thơ; ở miền Trung có Quốc học Huế; miền Bắc có trường Bảo hộ (trưởng Bưởi).

10 năm sau, đến 1927 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cải thiện bậc giáo dục trung học Pháp bản xứ. Người Pháp lập riêng cấp trung học bản xứ, tách ra từ lớp trung học mà người Việt học chung với Pháp ở Chasseloup Laubat.

Trường trung học bản xử Pétrus Ký được xây xong năm 1927 nhưng một năm sau đó mới khai giảng khóa đầu tiên với 200 học sinh. Một năm sau, trường được đổi tên Cao đẳng tiểu học Pháp bản xứ. Ngoài cấp cao đẳng tiểu học (trung học đệ nhất cấp), Pétrus Ký còn có đệ nhị cấp (trung học đệ nhị cấp hay cấp ba).

Theo VnExpress


Hãy chia sẻ cho bạn bè qua: