Tiếng lóng Sài Gòn xưa: “Bỏ qua đi Tám”


( 2SaiGon) – Trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam, có một hình thức phương ngữ không chính thức được phổ biến bởi một nhóm người trong  xã hội (ban đầu thiên về ý nghĩa tiêu cực) gọi là “Tiếng lóng”.

Tiếng lóng Sài Gòn xưa

Sài Gòn xưa với những con đường học trò rời rợi bóng me

h4Rsdsb

Thời đại của mạng xã hội lên ngôi, tiếng lóng càng tỏ ra “vi diệu”. Tiếng lóng hầu như có mặt khắp mọi nơi, với mọi đối tượng. Người ta thoải mái vô tư xài tiếng lóng mà có đôi khi không hiểu nghĩa gốc của nó là gì, xuất phát từ đâu.

Người Sài Gòn sống trong các thập niên bảy mươi của thế kỷ 20 đổ về trước hẳn ai cũng quen thuộc với cụm từ “bỏ qua đi Tám”. Từ sau 1975, cụm từ này dần dần bị quên lãng, nay ít còn ai sử dụng.

Tại sao lại không phải là hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy…  hay chín, mười, mà là tám? Mỗi người giải thích theo một kiểu nhưng không ai dám bảo đảm rằng kiến giãi của mình là chính xác nhất.

Bán-cơm-trưa-kiosque-trên-Đại-Lộ-Nguyễn-Huệ-1966

Tuy nhiên, phần luận giãi sau đây có thể được xem là thú vị, có lớp lang, nghe xuôi tai hơn hết thảy:

“Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.

Đứng trên hết là các “quan lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.

Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…

Hàng thứ Ba là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là một thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.

Xếp thứ Tư là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá ” tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.

Thứ đến là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…

Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).

Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lục làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…

Các-bác-tài-xế-xích-lô-máy

Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía.

Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”.

DLIQK1f

Đúng hay sai, tin hay không là tùy các bạn. Nếu có gì không vừa ý thì: “Bỏ qua đi Tám”…

2SaiGon (TH)


Hãy chia sẻ cho bạn bè qua: