Bình Dương là một tỉnh có tốc độ đô thị hóa cao của khu vực Đông Nam bộ và cả nước, với hình ảnh đặc trưng là những khu, cụm công nghiệp thi nhau mọc lên làm thay đổi nhanh chóng diện mạo các vùng quê và kéo theo đó là các làng nghề truyền thống cũng dần mai một. Làng gốm Lái Thiêu từng khá nổi tiếng cũng đang nằm trong quy luật nghiệt ngã đó, khi lò nung bị dời đi xa và người trẻ tỏ ra không mặn mà với nghề. Làng gốm Bình Dương tất bật làm “gà vàng” đón Tết Gốm Bàu Trúc “sống” trên đất Sài Gòn Một góc làng gốm Lái Thiêu. Ảnhh: VĂN PHONG Làng nghề vắng vẻ Trước khi vào làng gốm cổ, chúng tôi ghé UBND phường Lái Thiêu, một phường trung tâm của thị xã Thuận An (nằm cách trung tâm TPHCM khoảng 20km) có diện tích hơn 788ha với 8.617 hộ, 57.788 nhân khẩu, trong đó có hơn 40% là dân nhập cư. Ông Nguyễn Văn Phúc (tên thường gọi Ba Phúc) là dân thổ địa, ở Lái Thiêu được nửa thế kỷ và có thâm niên làm khu phố trưởng Bình Đức 1 hơn 20 năm, hiểu từng ngõ ngách và tâm tư của người dân, nhất là dân làm nghề gốm truyền thống. Ông Phúc được phường giao nhiệm vụ dẫn chúng tôi đi tìm hiểu làng nghề. Trên đường xuống làng nghề, ông Ba Phúc tâm tư: “Cô Hiếu (Nguyễn Ngọc Hiếu – Phó Chủ tịch UBND phường Lái Thiêu) ngại xuống gặp các chủ lò gốm, nên “bát xê” cho tui!”. Thấy chúng tôi thắc mắc, ông Phúc thẳng thắn nói: “Từ khi giải tỏa chuyển lò nung ra ngoại ô, bà con mần ăn khó nên oán trách chính quyền. Khu phố này có 19 gia đình chuyên làm gốm truyền thống 4-5 đời rồi và hàng trăm hộ làm thợ, mua bán gốm. Dân sống chết với các lò gốm bên bờ sông này, bây giờ chính quyền buộc dời lò nung truyền thống đi xa vì đốt bằng củi gây ô nhiễm môi trường…”. Theo chân ông Ba Phúc rẽ vào làng nghề gốm cách UBND phường non 2km, dọc con đường làng êm ả, vẫn còn dấu vết các lò nung, cơ xưởng, nơi nhồi đất tạo mẫu làm nên hình hài vật phẩm. Dù các lò đốt đã chuyển đi nhưng trên con đường làng cũ, bề rộng khoảng 4m đã được trải nhựa, vẫn còn vương mùi đất và những chiếc lu vại, chum chóe, nồi đất, lò đất, heo đất… để trật tự bên ngoài một căn nhà 2 tầng và rải rác dọc hai bên đường làng. Nhìn những chiếc lu to tướng, chiếc nồi đất nung, bếp lò nằm phơi mình dưới nắng mưa khiến chúng tôi không khỏi nhớ đến cái lu đựng nước ngọt giải cơn khát buổi trưa hè, nhớ cái nồi đất nấu cơm nếp, cá kho tộ thơm ngát của cả một thời thơ ấu… May mắn cho chúng tôi là vẫn còn một lò gốm duy trì hoạt động. Những hàng cột xiêu vẹo và mái ngói cổ bám rêu phong, minh chứng cho sự tồn tại hàng trăm năm qua. Một phụ nữ lớn tuổi đang cặm cụi chỉnh sửa con heo đất trước khi cho vào lò, một nhóm khác đang nhào trộn 3, 4 thứ đất, tạo nên hình hài những chú nai con, thỏ nhát, heo ú… bỏ vào khuôn sứ mang ra sân phơi. Tất cả cứ thoăn thoắt, nhịp nhàng và cần mẫn như những con ong thợ đang xây tổ. Bắt chuyện với một người thợ mặc mỗi chiếc quần cộc, bê một khuôn sứ chứa con heo đất ra sân phơi nắng. Người thợ tên Năm buông ngay một câu: “Dạo này lò chuyển đi xa, ít việc làm, các chú hỏi làm gì!”. Ông Ba Phúc nói thêm: “Trước khu phố này giàu lắm, các lò cạnh tranh nhau, xây được nhiều biệt thự cũng nhờ thời gian đua nhau làm gốm sau khi nhà nước cho bung ra làm kinh tế tư nhân hồi những năm cuối thập niên 80 đầu 90. Nhưng giờ điêu tàn rồi…”. Bến sông hiu quạnh Theo con đường nhựa xuyên qua làng gốm Lái Thiêu, giờ đã lên phường, với nhà cửa kiên cố san sát nhau, chúng tôi ra tới bến sông của làng gốm. Đang là mùa mưa, con nước lên nhưng ghe thuyền khá thưa thớt. Phải đi hết con đường mới thấy được 2 chiếc ghe loại vài chục tấn đang đang bốc hàng. Đám thanh niên, thợ thuyền luân chuyển từng lô hàng lên tàu qua chiếc cầu gỗ tạm. Chị Diệu, một chủ buôn từ Cần Thơ lên nhận hàng, xởi lởi: “Em hành nghề buôn gốm sứ ở đây 19 năm rồi. Làm nghề này lời rất ít nhưng quen rồi, em đóng hàng khoảng vài tuần một chuyến rồi xuôi về các tỉnh miền Tây bỏ mối. Lúc trước em có đi hàng sang Campuchia nhưng đi dài ngày, nhiều vốn, khó cạnh tranh, nên giờ em chỉ đi miền Tây. Mỗi chuyến tàu đi miền Tây vốn 600 – 700 triệu đồng, đi Campuchia gấp 3-4 lần mới đủ sở hụi”. Trên bờ, phía đối diện là những cửa hàng bày biện các loại vật phẩm làm bằng gốm sứ. Ông Ba Phúc giới thiệu chúng tôi với ông Nguyễn Văn Đức (Chín Đức, 58 tuổi) – một người sinh ra và lớn lên ở làng gốm này. “Mấy chú thấy đó, dạo này hàng bán ế nên bỏ la liệt nơi vỉa hè. Qua mua bán cầm chừng, đủ sống!”, ông Đức tâm sự. Trên con phố Châu Văn Tiếp dài khoảng hơn 600m có khoảng 30 hộ chuyên buôn bán hàng gốm. Ngoài gốm Lái Thiêu, một số cơ sở còn nhập thêm gốm từ Bát Tràng (Hà Nội) về bán. Những món hàng gốm phong phú lên tới cả trăm món. Ông Đức tâm sự thật lòng: “Buôn bán nghề gốm truyền thống này không phải nộp thuế vì được khuyến khích, nhưng phải chịu khó, thức đêm dậy sớm làm cũng cực, mỗi năm lời khoảng 100 – 200 triệu đồng. So với cách đây 5 năm, lượng hàng ngày càng giảm”. Một trong những gia đình gắn bó lâu đời với nghề làm gốm truyền thống là nhà họ Vương, giờ đã sang đời thứ 6. Chị Vương Khôn Oanh (54 tuổi) là đời thứ 5 làm nghề gốm, tiết lộ: “Ông tổ nhà mình từ Phúc Kiến (Trung Quốc) sang định cư và làm nghế gốm gần 300 năm. Dãy nhà 5 căn biệt thự phố là do ông nội và cha mẹ xây dựng cho con cháu”. Mảnh đất này trước đây là lò gốm, nhà trại, sân phơi… làm phương tiện hành nghề, bây giờ phải di dời lò đi xa nên làm nhà ở thôi, khách đặt gì làm nấy; chủ yếu vẫn là đồ sành sứ như chậu kiểng trồng lan, con thú (12 con giáp), niêu đất cung cấp cho các tỉnh miền Trung, TPHCM, miền Tây. Giọng chị Oanh đượm buồn: “Trước đây có làm gốm men màu, giờ chủ yếu làm gốm đất. Bọn trẻ giờ không theo nghề, Nhà nước lại bắt di dời không cho làm lò nung tại chỗ nên… buồn cũng chịu vậy!”. Câu nói của người thợ, hậu duệ 5 đời làm gốm với tâm trạng đầy luyến tiếc. Họ đang ở trong những ngôi nhà cao tầng, khang trang nhưng tâm khảm thì vẫn thuộc về quá khứ chưa xa. Ngoài kia, dòng sông Sài Gòn vẫn chảy xuôi dòng và dòng đời vẫn trôi. Đó là quy luật phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng với thời đại công nghiệp 4.0 này, dòng đời trôi nhanh hơn. Nếu cứ đà này, chỉ ít năm nữa thôi, làng nghề gốm sứ truyền thống Lái Thiêu cũng sẽ tan theo dòng nước… Theo SGGP