“Đại ca” Hai Miêng sống ngang tàng nghĩa hiệp, chết vô đình


Cậu Hai Miêng tên thật là Huỳnh Công Miêng, sinh năm 1862 tại xứ Gò Công (nay thuộc vùng Gò Công Đông, Tiền Giang). Chết trong vòng vây 40 tay “đâm thuê chém mướn” ở khu vực Cầu Kho hiện nay năm 1899.

 Lễ cúng ở hậu sở đình Nhơn Hòa tưởng nhớ tiền nhân, trên bàn thờ là bài vị Cậu Hai Miên - Ảnh: Hồ Tường


Lễ cúng ở hậu sở đình Nhơn Hòa tưởng nhớ tiền nhân, trên bàn thờ là bài vị Cậu Hai Miên – Ảnh: Hồ Tường

Cha mẹ của Huỳnh Công Miêng có tổng cộng năm người con: Cậu Hai Miêng vốn là con trai thứ hai, con trai út là Huỳnh Công Viễn, cùng với ba người con gái giữa, trong đó hai người con gái đã trở thành nữ tu đạo Thiên Chúa và một người chết lúc còn nhỏ.

Vợ của Cậu Hai Miêng là bà Lê Thị Túy, em gái cai tổng Lê Quang Chiểu (người gốc ở Phong Điền, Cần Thơ), một người nổi tiếng tiểu thư khuê các, văn hay chữ tốt, có nhà ở vùng Tân Hòa xã, nay là khu vực phường Cầu Kho và phường Nguyễn Cư Trinh (quận 1, TP.HCM).

Cha của Huỳnh Công Miêng là Huỳnh Công Tấn – đã được người Pháp ban cho chức Lãnh Binh sau khi đưa quân Pháp đàn áp một số các phong trào khởi nghĩa ở miền Nam chống lại sự xâm lược của Pháp vào Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19.

 Cậu Hai Miên thuở nhỏ cùng cha mẹ và người hầu (phía sau) - Ảnh tư liệu


Cậu Hai Miêng thuở nhỏ cùng cha mẹ và người hầu (phía sau) – Ảnh tư liệu

Cây đắng sanh trái ngọt: bỏ việc bất nghĩa đàn áp nghĩa quân

Nhiều người nói rằng cha con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn và Cậu Hai Huỳnh Công Miêng là trường hợp khác thường: cây đắng sanh trái ngọt.

Nếu người cha là Lãnh Binh Tấn bị người đời cười chê là: “Chó săn có lũ thằng Tường (Tôn Thọ Tường) – Thằng Lộc (Trần Bá Lộc), thằng Tấn (Huỳnh Công Tấn), thằng Phương (Đỗ Hữu Phương) một đoàn”, thì Cậu Hai Miên lại được dân gian ca ngợi là: “Nam kỳ có cậu Hai Miêng – Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công – Cậu Hai là bực anh hùng – Ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh! – Nam kỳ lục tỉnh nổi danh”…

Năm 17 tuổi, Huỳnh Công Miêng cùng với Trần Bá Hựu (em ruột Trần Bá Lộc), Lê Công Phụng, con nuôi của Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn, được qua Pháp du học Trường La Seyne gần Toulouse.

Sau 4 năm, cả ba không đỗ đạt bằng cấp gì cả, nhưng nói trôi chảy tiếng Pháp, về nước được Pháp cho làm thông ngôn, sau thăng ông Phán, tri huyện hàm.

Riêng Huỳnh Công Miêng lúc mới về nước, được cử làm việc dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc lúc đó được điều ra miền Trung đánh phá phong trào yêu nước của anh hùng Mai Xuân Thưởng.

Trong cuộc hành quân 70 ngày, Trần Bá Lộc đã ra tay giết chết, khủng bố hàng loạt người dân lương thiện đến nỗi người Pháp cũng phải kinh sợ.

Lộc còn lập kế bắt mẹ của lãnh tụ nghĩa quân tra khảo, đe dọa giết để Mai Xuân Thưởng về hàng. Những việc sát hại đồng bào của Trần Bá Lộc đã khiến Huỳnh Công Miêng phẫn uất, chán nản, thấy mình không thể theo Lộc làm những điều tàn ác được nữa, nên đã bỏ quan chức mà trở về làm thường dân.

“Giữa đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”

Từ đó, Huỳnh Công Miêng trở thành một công tử ăn chơi khét tiếng miền Nam. Dân chúng gọi bằng “Cậu Hai Miêng”.

Cậu Hai sống theo kiểu giang hồ hảo hán, lưu linh miễn tử khắp Nam kỳ, sống hoang đàng, tiêu tiền như nước và thường làm những việc nghĩa hiệp “giữa đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”.

Hành động “từ bỏ chức tước, quyền hành cao sang, tránh xa những công việc tàn ác, sát hại đồng bào” của Cậu Hai Miên đánh đúng tâm lý của người dân Việt Nam thời bấy giờ, nhất là tầng lớp dân lao động, đó là tâm lý “trọng nghĩa, khinh tài” mà Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận về những người dân cần cù của Phiên An (sau là Sài Gòn, Gia Định, nay là TP.HCM) trong Gia Định Thành Thông Chí từ đầu thế kỷ 19.

Đó có thể xem là lý do đầu tiên mà người dân Nam kỳ, trong đó có dân lao động ở khu vực Cầu Muối, đã nể trọng Cậu Hai Miêng, để từ đó thờ Cậu tại đình Cầu Muối sau khi Cậu thất lộc ngay trên địa bàn cư trú của mình.

Cuộc đời của Cậu Hai Miêng đã để lại những dấu ấn tốt đẹp trong tình cảm của người dân lao động.

Trước hết là hành vi “tống tiền” của Cậu Hai Miêng với quan tham biện tỉnh Mỹ Tho (người Pháp, chức này tương đương chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh ngày nay) với kết quả: vị quan Tây này nể uy quyền của quan lớn Tấn (cha Cậu Hai Miêng) đã phải trả lời: “Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài” (vè cậu Hai Miêng).

Chưa hết, nhiều người cũng nhắc chuyện Cậu Hai Miêng ra tay đánh cặp rằn (giám thị) Tây vì ức hiếp dân phu đào ao Trường Đua ở Gò Công…

Chẳng những coi thường quan Tây, Cậu Hai Miêng còn ra tay trị tới những tham quan ô lại người Việt thời bấy giờ, trong đó có một hương quản (tương đương trưởng công an xã, phường, thị trấn ngày nay) vốn từng cầm roi cá đuối đánh đập dân làng.

Tay này đã bị Cậu Hai Miêng trừng trị đến nỗi phải chạy đi xứ khác: “Hương quản đã trốn bỏ làng, Còn ai đâu nữa nghinh ngang ỷ quyền”.

Cậu Hai Miêng không dừng lại ở đó mà còn trừng trị bọn cường hào ác bá mới nổi lên tại Bạc Liêu ở xứ Nam kỳ thuộc địa: anh em chủ Thời, chủ Vận…

Ông chủ Thời có một cô con gái tên là cô Hai Sáng. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói đến chữ Sáng như “buổi sáng”; hồi “sáng mai”, mà phải nói lại “buổi sớm”; “sớm mơi”… cũng đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao. Có một lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miên ngao du tới xứ Bạc Liêu.

Nghe nói về chủ Thời, chủ Vận, cô Hai Sáng, Cậu Hai Miêng tức giận vô cùng. Cậu đã cho ghe ghé lại. Về chuyện này, ông Nguyễn Công Chẩn (phó ban quản trị đình Cầu Muối) lúc còn sống từng kể rằng Cậu Hai Miên đã ra lệnh lột hết quần áo cô Hai Sáng, trói lại và kéo lên cột buồm. Ông chủ Thời vội vã xuống nước nhỏ, năn nỉ, thương lượng với Cậu Hai Miêng xin chuộc cô Hai Sáng bằng một bao cà ròn giấy bạc.

Cậu Hai Miên bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi gia nhân ôm bao cà ròn đầy nhóc giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời, chủ Vận bớt hống hách với dân làng…

Đời nào cũng vậy, hễ ai ra tay trừng trị bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá đều được dân lành tin yêu, kính mến.

Đó là lý do thứ hai khiến cho dân Cầu Muối đã thờ Cậu Hai Miêng từ bao đời nay.

Cậu Hai Miêng còn hay giúp đỡ người thất cơ, lỡ vận và kẻ dưới tay. Mở đầu “Thơ Cậu Hai Miêng” là câu chuyện Bảy Danh, Tám Hổ, Ba Ngà đến nhà than phiền với Cậu Hai Miêng là mới thua ba ngàn đồng tiền chơi me ở nhà Chệt Lù (tên thường gọi của một người Hoa chơi cờ bạc), nhờ Cậu gỡ gạc giùm.

Cậu Hai Miêng liền cho người gọi Chệt Lù đến để “gầy sòng”, kết quả Cậu đã thắng bạc hơn bốn ngàn hai và trả lại tiền cho ba tên đã thua.

Nếu chỉ có vậy thì chưa chắc giới bình dân đã khoái Cậu Hai Miêng, mà Cậu còn làm nhiều việc nghĩa hiệp. Đó là lúc cậu ra tay đánh tên vô lại Tám Hổ để bảo vệ người phụ nữ bị tên này ức hiếp. Tuy nhiên, Cậu Hai Miêng còn chơi rất giang hồ mã thượng, đó là khi Tám Hổ bị “nốc ao” xin tha tội thì “Cậu hai thấy vậy tha ngay”!

Sống ở đời, làm việc nghĩa hiệp luôn được mọi người ca ngợi.

Cầu Kho năm 1955 - Ảnh tư liệu

Cầu Kho năm 1955 – Ảnh tư liệu

Tung hoành bốn phương, chết ngay cửa nhà

Nhà của vợ chồng Cậu Hai Miêng ở vùng Cầu Kho (trước là xã Tân Hòa, nay là khu vực phường Cầu Kho và phường Nguyễn Cư Trinh, thuộc quận 1, TP.HCM).

Lang bạt kỳ hồ rồi Cậu Hai cũng phải về với mái ấm gia đình.

Sau lần chọc trời khuấy nước ở Bạc Liêu, ngày mùng 6 tháng chạp năm Kỷ Hợi (1899), Cậu Hai Miêng trực chỉ vùng “khói tỏa Cầu Kho thăm vợ hiền” thì đã bị cô Hai Sáng rửa hận.

Ông nội của nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường (Cai Lậy, Tiền Giang) lúc sinh tiền kể lại rằng: lần đó, cô Hai Sáng thuê hơn 40 tay “đâm thuê chém mướn” cầm dao xắt chuối bao vây Cậu Hai Miêng.

Mặc dù rất giỏi võ, nhưng Cậu Hai không đương cự nổi, lâm cảnh “mãnh hổ nan địch quần hồ”, đã qua đời, hưởng dương 38 tuổi. Đây là tuổi qua đời yểu mạng, mà người xưa cho là chưa tới số!

Sống không khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng ra tay diệt trừ cường hào ác bá, bênh vực kẻ yếu, rộng lượng với người dưới ngựa; qua đời tuổi trung niên, cho nên người dân lao động vùng Cầu Muối đã tôn kính Cậu Hai Miêng ngay trong ngôi đình của làng mình đang sinh sống.

Họ tin tâm linh rằng Cậu Hai “sống khôn, thác thiêng”, phù hộ cho nhân dân lao động trong vùng bớt được cuộc sống quá nhọc nhằn…

Theo Hồ Tường/Tuổi trẻ


Hãy chia sẻ cho bạn bè qua: