Giang hồ xưa tuy nghèo chữ nghĩa nhưng giàu chữ “tín”, cư xử với nhau rất “nghĩa khí”. Khi có chuyện phải “đối thoại” với nhau bằng dao búa, họ không bao giờ ỷ lại vào lực lượng hùng hậu để “đánh hội đồng” theo kiểu “ruồi bu cùi bắp” như đám choai choai bây giờ mà sẵn sàng chơi “bặc-co” tay đôi “một chọi một”. Cuộc đời Đại Cathay – trùm giang hồ Sài Gòn xưa Giang hồ Sài Gòn Xưa – Chuyện chợ Cầu Muối Diện mạo giang hồ thời Pháp thuộc Thời Pháp thuộc, giang hồ miền Nam phần lớn là những tá điền “dốt đặc cán mai”, một chữ bẻ đôi không biết, chịu không nổi ách áp bức, bóc lột của bọn cường hào, ác bá bèn bỏ xứ đi làm trộm cướp, y như nhân vật thầy giáo Hai Thành trong vở cải lương Đời cô Lựu. Những nông dân tay lấm, chân bùn này trôi dạt lên Sài Gòn – Chợ Lớn sống lang thang ven kênh rạch, bến xe thổ mộ, nhà ga… Ban ngày, họ nai lưng làm cu-li. Tối đến, họ cởi áo bôi mặt nhọ nồi, lận mã tấu trong cạp quần hành nghề “đạo tặc”. Lãnh địa giới giang hồ hùng cứ vào những năm 20 – 30 thế kỷ trước là Chợ Lớn, Lăng Ông – Bà Chiểu, Xóm Thuốc (Gò Vấp), bến phà Thủ Thiêm, cầu Sắt (Đa Kao) và bến xe Lục tỉnh. Nét đặc biệt của giang hồ đầu thế kỷ 20 so với du đãng bây giờ chính là bản lĩnh. Tay anh chị nào cũng võ nghệ đầy mình, không giỏi quyền cước thì đừng hòng trụ vững ở cái thế giới “lắm người, nhiều ma” này. Khi có chuyện phải “đối thoại” với nhau bằng dao búa, họ không bao giờ ỷ lại vào lực lượng hùng hậu để “đánh hội đồng” theo kiểu “ruồi bu cùi bắp” như đám choai choai bây giờ mà sẵn sàng chơi “bặc-co” tay đôi “một chọi một”. Có thể kể đến cuộc đụng độ của Bảy Viễn với Mười Trí, quyền sư Mai Thái Hòa so tài với gã giang hồ Tư Ngang tại “hãng phân” Khánh Hội (Q.4), “thầy ngải” Nguyễn Nhiều bẻ lọi tay trùm du đãng khu lò heo Gia Định – Phillip – ở cầu Sơn (Thị Nghè)… Giang hồ xưa tuy nghèo chữ nghĩa nhưng giàu chữ “tín”, cư xử với nhau rất “nghĩa khí”, bởi thế mới sinh ra từ “điệu nghệ” do từ “đạo nghĩa” đọc trại ra. Thời kỳ này, giang hồ Sài Gòn ít nhiều chịu ảnh hưởng từ nhân vật trong các pho truyện “Tàu” được bán khắp các bến xe do nhà in Tín Đức Thư Xã ấn hành. Thực tế cho thấy, không ít tay du đãng sừng sỏ từng lấy biệt danh là Võ Tòng, La Thành, Đơn Hùng Tín, Tiểu Lý Quảng, Triệu Tử Long, Đông Phương Sóc… như là một thứ “danh thiếp”nhằm khẳng định tên tuổi trong chốn giang hồ. Nhìn chung, khắp Nam kỳ lục tỉnh thời kỳ này đừng hòng đào đâu ra một tay giang hồ quậy phá làng xóm hoặc trộm chó, bắt gà. Giang hồ thời Tây sống anh hùng mã thượng, “trọng nghĩa, khinh tài” và luôn luôn “kiến nghĩa bất vi” y như những nhân vật “quân tử Tàu” trong truyện Thất hiệp ngũ nghĩa, Thất kiếm thập tam hiệp. Cũng chính vì vậy, chính quyền thực dân Pháp cùng bọn tay sai ác ôn luôn ăn không ngon, ngủ không yên. Chúng tìm mọi cách bắt bớ, giam cầm, thậm chí lén lút thủ tiêu họ nhằm trừ hậu họa. Những cuộc “long tranh, hổ đấu” Gần một thế kỷ đã trôi qua nhưng trong võ lâm giang hồ vẫn tồn tại 2 câu chuyện thuộc vào hàng “điển tích”. Câu chuyện thứ nhất xảy ra vào năm 1936, trùm du đãng Bảy Viễn bị đày ra đảo Côn Lôn vì can tội cướp tiệm vàng. Tại đây, hắn bị biệt giam tại phòng 5 và đã đụng độ tên cọp rằn ác ôn người Miên tên Khăm Chay – một tướng cướp trên núi Tà Lơn. Tên này võ nghệ cao cường, có luyện “gồng Trà Kha”, được chúa đảo Bouvier đỡ đầu với chính sách dùng tù Miên trị tù Việt. Trong cuộc so tài, Bảy Viễn đã tung một cú đá xỉa bằng năm đầu ngón chân (Kim Tiêu cước) nhanh và hiểm trúng vào nhân trung (yếu huyệt) Khăm Chay khiến hắn bể sóng mũi, giập môi, gãy răng, máu tuôn xối xả, tràn cả vào mồm. Khăm Chay lảo đảo vài bước rồi đổ gục xuống nền buồng giam. Từ đó, cọp rằn Khăm Chay lặn mất tăm. Phục ở chỗ, gã không hề dựa hơi chúa đảo người Pháp phái lính mã tà tra tấn địch nhân hay kéo bọn tù đàn em dùng số đông trả thù Bảy Viễn. Kể ra đó cũng là nghĩa khí của đấng trượng phu! Câu chuyện thứ 2 là khi thủ lĩnh Bình Xuyên – Ba Dương – đề nghị Sáu Cường ủy lạo gạo, tiền nuôi binh đánh Tây. Gã anh chị có chân to như “chân voi” (hai bàn chân Sáu Cường chiều dài hơn 3 tấc) đã dõng dạc tuyên bố: “Nếu Ba Dương chịu nổi một cước của Sáu Cường này thì muốn bao nhiêu gạo cũng được”. Ba Dương chấp nhận. Trận thư hùng diễn ra tại bến xe An Đông. Khi Ba Dương đến, đám thuộc hạ của Sáu Cường đồng loạt cười ồ bởi ngoại hình tay thủ lĩnh lực lượng quân đội Bình Xuyên quá “mỏng cơm”. Nhưng sau khi Sáu Cường xuất chiêu mới biết là mình đã lầm. Để khắc chế cú đá nặng ngàn cân của đối phương, thân hình Ba Dương luồn lách uyển chuyển như con rắn, dùng “xà tấn” lòn thấp người tránh né đồng thời dùng “hạc quyền” khẽ chạm vào hạ bộ của “thần cước” Sáu Cường. Liên tục 3 cú đá mạnh và nhanh như điện mà Sáu Cường tung ra, đối thủ đều né tránh tài tình. Cùng lúc, Ba Dương 3 lần dùng tuyệt kỹ võ hạc “mổ” nhẹ vào “của quý” Sáu Cường, dụng ý chỉ nhằm cảnh cáo. Biết mình đã lỡ đụng nhằm cao thủ, trùm giang hồ bến xe An Đông lập tức dừng đòn, nghiêng người cúi đầu đưa hai tay cung kính bái phục Ba Dương như một hiệp khách bại trận và tất nhiên giao kèo trước đó được hai tay anh chị thực thi chóng vánh. Không hề có chuyện Sáu Cường giở trò chơi dơ “lật kèo” ỷ nhiều đánh ít, mặc dù Ba Dương đến bến xe An Đông “phó hội” đơn thân độc mã, tay không tấc sắt. “Cao bồi” xuất hiện Sau khi chế độ Diệm – Nhu bị đảo chính và triệt hạ, giang hồ theo kiểu “108 anh hùng Lương Sơn Bạc” coi như xóa sổ. Cho đến những năm đầu 60, khi trào lưu “Làn Sóng Mới” (Le Nouvel Vague) từ phương Tây đổ bộ lên “Hòn ngọc Viễn Đông”, một số tay anh chị bắt đầu xuất hiện trở lại và chia nhau hùng cứ những khu vực manh mún ở Sài Gòn. Cụm từ “hippy choai choai” do báo chí Sài Gòn đặt, ám chỉ lớp người trẻ ăn mặc theo kiểu cao bồi miền viễn Tây Texas (Hoa Kỳ) cưỡi ngựa chăn bò với quần jean, áo sơmi ca rô sọc to xanh đỏ, giày ống cao gót, tóc dài phủ gáy, phóng xe máy Sachs như điên trên đường phố, miệng phì phèo thuốc lá Salem. Ban ngày, các “cao bồi” này “ngồi đồng” ở các quán cà phê nhạc ngoại quốc trên đại lộ Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Tối đến, họ “đóng đô” ở các phòng trà, vũ trường giá “bèo” như Anh Vũ, Bồng Lai, Melody, Lai Yun (Lệ Uyển), Arc En Ciel (khu Tổng Đốc Phương), ngã tư Bảy Hiền, hồ bơi Chi Lăng, Victoria (Phú Nhuận)…, sẵn sàng gây sự và đánh lộn, đập phá, đâm chém chỉ để nhằm khẳng định mình là “cao bồi” chính hiệu! Sau cuộc chính biến lật đổ “Ngô triều” vào đầu thập niên 60, trật tự đô thị Sài Gòn trở nên hỗn độn, khó kiểm soát. Nhân cơ hội này, nhiều thành phần “cao bồi” manh nha xuất hiện, “vỗ ngực xưng tên”. Nổi trội trong giới giang hồ là những “đại ca” tên tuổi như Cà Na ở khu Tân Định (sau theo võ sư Huỳnh Tiền, đấu võ đài 8 trận toàn thắng với biệt danh Huỳnh Sơn), Bích “Pasteur”, Búp “Moderne”, Bình “thẹo”, Lộc “đen” (vua nhảy bebop), Hân “Faucauld”, Sáu “già”, Nhã “xóm chùa”… Quận 1 – vùng đất màu mỡ trù phú – do “tứ đại thiên vương” Lê Đại, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế chia nhau cai quản. Đám lâu la đông hàng trăm tên gồm A “chó”, Hải “sún”, Lâm “khùng” (tức Lâm “chín ngón” sau này), Lương “chột”, Hùng “đầu bò”, Việt “Parker”, Đực “đen”. Khu vực quận 3 có Minh “nhảy dù”, Cẩm “Mambo”, Lâm “thợ điện” (nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật bán đồ điện gia dụng), Hùng “mặt mụn” (thủ phạm đâm chết Lâm “thợ điện” ở bệnh viện Từ Dũ bằng con dao cắt bánh mì sau một vụ cãi nhau vớ vẩn vì chiếc xe đạp Martin). Xuôi về quận 5 hướng chợ Nancy rồi Đại Thế Giới (chợ Soái Kình Lâm – “đèn năm ngọn”) là lãnh địa của những trùm giang hồ người Hoa như Tín Mã Nàm (Nàm Chẩy), Sú Hùng, Hổi Phoòng Kiên, Trần Cửu Can, Ngô Tài… Bóng hồng sát thủ Trong giới giang hồ Sài Gòn thập niên 60 – 70 xuất hiện một “bóng hồng sát thủ”, đó là Lệ Hải – “người tình một năm” của ông trùm Đại “Cathay”. Lệ Hải xuất thân con nhà giàu có, gia giáo, trâm anh thế phiệt, cựu nữ sinh trường Marie Curie, thi đỗ tú tài I. Năm 17 tuổi, Lệ Hải đã thi lấy bằng lái ô tô, hằng đêm lướt đến các vũ trường trên chiếc Toyota Corolla màu đỏ cánh sen bóng lộn. Là một giai nhân giàu có lại “biết chữ”, Lệ Hải không thèm cặp bồ với những tay giang hồ thô kệch võ biền mà chấp nhận làm người tình của bác sĩ Nghiệp – một thầy thuốc có ngoại hình trí thức kèm máu du đãng nổi tiếng Sài Gòn bởi luôn có mặt bên cạnh Đại “Cathay” ở các phòng trà, động hút. Sau khi đã “hoa chán, nguyệt chê” Lệ Hải, gã bác sĩ bèn “sang tay” người tình cho Đại “Cathay” trong một đêm sinh nhật thác loạn tổ chức ở phòng trà Lido trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Q.5. “Gái giang hồ” hội ngộ “trai tứ chiếng”, vóc dáng “du đãng mang nét mặt thư sinh” của Đại “Cathay” nhanh chóng thu hút “nữ quái” đa tình. Từ sau đêm đó, Lệ Hải bỏ nhà đi “sống bụi đời” cùng Đại “Cathay” như vợ chồng. Thế nhưng, cuộc tình “sét đánh” cũng nhanh chóng vỡ tan sau một năm chăn gối mặn nồng. Lệ Hải bỏ người tình, cặp bồ với nhiều nhân vật giàu có thế lực, vừa thỏa mãn tình lại dễ moi tiền. Với gương mặt ưa nhìn, nét đẹp thanh tú, cao ráo, trắng trẻo, lại có học thức, Lệ Hải dễ dàng dùng “mỹ nhân kế” mồi chài những ông chủ salon lắm tiền nhiều của, các dân biểu “tai to mặt lớn” hay sĩ quan tướng lĩnh Sài Gòn “vui vẻ qua đêm”. Chẳng bao lâu, Lệ Hải đã lột xác thành một nữ chúa trong giới giang hồ sau khi nhờ Đạt “ba thau” xăm trổ hình bông hồng đỏ dưới rốn và con rắn phùng mang nơi ngực trái. Qua sự giới thiệu của “nhà văn chém mướn” Nguyễn Đình Thiều, nhà văn Nhã Ca đã hội ngộ Lệ Hải tại vũ trường Ritz và được “yêu nữ” đồng ý cho chắp bút về cuộc đời du đãng của mình. Tiểu thuyết Cô hippy lạc loài ấn hành đã gây xôn xao dư luận. Những gia đình khá giả có con gái đang độ tuổi trưởng thành đọc xong tiểu thuyết của Nhã Ca đều lo ngay ngáy, ăn ngủ không yên. Ăn theo cuốn tiểu thuyết này, năm 1973, Lidac Film giao cho đạo diễn Lê Dân thực hiện bộ phim màu 35mm màn ảnh rộng với tựa Hoa mới nở qua sự diễn xuất của Bạch Liên, Vũ Thái Bình, Mỹ Hòa, Cát Phượng, La Thoại Tân, bà Bảy Ngọc, bà Năm Sa Đéc, Đinh Xuân Hòa… Bộ phim đã dự Liên hoan thanh niên thế giới lần 8 tổ chức tại Canada năm 1974. Nhà thơ trẻ Văn Mạc Thảo sau một đêm “tâm sự” cùng Lệ Hải đã cảm hứng sáng tác một bài thơ, trong đó có hai câu “Ta gọi tên em là yêu nữ/ Là loài yêu mị, gái hồ ly”. Bài thơ sau đó được Ngọc Chánh (trưởng ban nhạc Shotguns) phổ nhạc với tiếng hát nam danh ca Elvis Phương: “Loài yêu nữ mang tên em…” được giới “hippy choai choai” Sài Gòn thuộc nằm lòng. Nữ văn sĩ Lệ Hằng cũng gặp Lệ Hải tìm cảm hứng sáng tác Kinh tình yêu và Bản tango cuối cùng – 2 quyển tiểu thuyết “hit” nhất trên văn đàn miền Nam năm 1973. Tháng 4/1975, khi quân giải phóng đánh chiếm sân bay Biên Hòa, Lệ Hải vội vã cùng chồng hờ – một ông chủ salon ô tô người Hoa giàu sụ – mua tàu vượt biển di tản qua Úc rồi sau đó định cư tại Anh. Khi gã chồng Hoa kiều bất ngờ đột tử sau một đêm ân ái, Lệ Hải sống lặng lẽ, cô độc trong tòa biệt thự xa hoa, lộng lẫy, không con cái cũng chẳng có người thân, từng ngày buồn bã gặm nhấm về những tháng ngày dữ dội của thế giới du đãng Sài Gòn trong sương mù London rét buốt. Trong các tiểu thuyết viết về thế giới du đãng của nhà văn Duyên Anh – Vũ Mộng Long xuất bản trước 1975, chỉ có 4 nhân vật là những nguyên mẫu có thật ngoài đời gồm Lê Văn Đại (tức Đại “Cathay”), Trần Thị Diễm Châu, Chương “còm” và Dũng “Đa Kao” còn những Hoàng “guitar”, Quyên “Tân Định”, Bồn “lừa”, Hưng “mập”, Danh “ná”, Vọng “ghẻ”, thằng Khoa, thằng Côn, thằng Vũ, con Thúy… là do nhà văn phịa ra bên bàn đèn thuốc phiện. Tương tự, nhân vật “Loan mắt nhung” trong tiểu thuyết cùng tên cũng do nhà văn Nguyễn Thụy Long hư cấu. Theo DÒNG ĐỜI